A Di Đà Phật Tiếng Trung

A Di Đà Phật Tiếng Trung

Theo lý giải trên Cổng thông tin Phật giáo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, "Nam mô A Di Đà Phật" có nghĩa là “Kính lễ đấng giác ngộ vô lượng” hoặc “Quay về nương tựa đấng giác ngộ vô lượng”. Đây là câu niệm quen thuộc và thường dùng khi các Phật tử chào nhau.

'Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật' là gì?

Theo kinh Phật, Đức Thích Ca Mâu Ni là bậc thầy thấu rõ, giác ngộ chân lý vạn pháp, đem lại ánh sáng cho nhân gian. Ngài xuất thân từ hoàng tộc Gautama thuộc tiểu vương quốc Shakya nhưng lại lựa chọn con đường tìm chánh đạo, tu tập. Trải qua 6 năm, ngài đạt giác ngộ khi 35 tuổi và dành cả phần đời còn lại để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh. Ngài chính là người đặt nền tảng cho sự hình thành và lan tỏa của đạo lý Phật giáo ngày nay.

Cũng theo lý giải trên Cổng thông tin Phật giáo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, câu niệm "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật" có ý nghĩa chi tiết theo từng chữ như sau: Bổn nghĩa là gốc. Sư nghĩa là thầy. Bổn sư tức là gốc của bậc thầy, là một vị thầy lớn. Thích Ca Mâu Ni là tên Đức Phật.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. (Ảnh: Phatgiao.org.vn)

Tên của Ngài có nghĩa là năng nhân và tịch mặc. Nhân trong nhân đức và năng là năng lực, sức mạnh, năng nhân là sức mạnh của lòng nhân từ. Sức mạnh đó luôn tồn tại trong Đức Phật và cứu khổ cho chúng sinh, nguyện đưa chúng sinh đến nơi cực lạc, xua đi mọi muộn phiền, khổ đau trong cuộc sống.

Tịch mặc có nghĩa là trí tuệ, sự thấu đáo của trí tuệ thấu đạt mọi ngoại cảnh. Đức Phật là bậc đại trí, thoát khỏi tình trạng nô lệ cho ngoại cảnh, cho thân xác và ngộ ra chân lý giải thoát.

Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và Đức Phật A Di Đà

Linh Hoạt Với Phương Thức  Giao Hàng Tận Tay của cơ sở Điêu Khắc Huỳnh Bá Thơ

Cơ sở Điêu Khắc Huỳnh  Bá Thơ Cam Kết Đúng Chất Lượng Đá Mỹ Nghệ

Bộ Phận Hỗ Trợ Khách  Hàng 24/7 Hotline: 09455 666 44

Chúng Tôi Đồng Hành Cùng Bạn Tạo Ra Sản Phẩm Tốt Nhất

NSGN - Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miền thế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai, phần lớn người ta thường nhắc đến đầu tiên là Bồ-tát Di Lặc, hình ảnh vị Bồ-tát Đại sĩ được tôn thờ phổ biến trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền. Danh hiệu Ngài vốn không chỉ quen thuộc đối với Phật tử Đại thừa, mà cũng xuất hiện rất nhiều trong kinh điển Pāli thuộc bộ phái Theravāda.

“Di Lặc 彌勒”, tiếng Sanskrit gọi là Maitreya(Pāli: Metteyya), ngài Huyền Tráng phiên âm là: Mỗi-đát-lị-da 梅呾利耶, dịch là Từ Thị 慈氏, xưa phiên là Xưng (Di?)-đế-lệ 稱帝麗 hay Di-lặc 彌勒, thảy đều nhầm với tiếng Sanskrit.

Về danh hiệu “A-dật-đa 阿逸多” cũng gọi A-di-đa, hay A-thị-đa, Sanskrit = Pāli: Ajita, Hán dịch: Vô Năng Thắng 無能勝. Danh hiệu này các thư tịch ghi nhận không đồng nhất:

- Truyền thống bộ phái: Căn cứ vào các tài liệu Hán tạng, đại biểu là Trung A-hàm 13, kinh 66. Thuyết bản1, đơn hành bản tương đương: No. 44, Cổ lai thế thời kinh, cho thấy trong Phật giáo bộ phái, A-dật-đa (Ajita) và Di Lặc (Mettaya), là hai nhân vật khác nhau, cả hai vị này đều là Tỷ-kheo trong chúng Thanh văn được Phật Thích Ca thọ ký, một vị làm vua Chuyển luân và một vị làm Phật.

- Truyền thống Đại thừa: Căn cứ Hán dịch, kinh Pháp hoa 6, phẩm Tùy hỷ công đức2, Đức Phật gọi Di Lặc là A-dật-đa (Ajita). Điểm này cũng được thấy tương đương trong thủ bản Saddharmapuṇḍarīkasūtram bằng tiếng Sanskrit3, tức đồng nhất hai nhân vật là Di Lặc và A-dật-đa thành một4.

Về kỷ nguyên của Đức Phật Di Lặc, trong Trường A-hàm 6 - kinh Chuyển luân vương tu hành nói rõ:

“Trong lúc nhân loại sống tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới gả chồng, và có chín thứ bệnh (…) Vào thời kỳ ấy thì có Đức Phật ra đời hiệu là Di Lặc Như Lai.”5

Huyền ký này cũng được tìm thấy tương đương trong kinh 26, Cakkavatti (Chuyển luân vương)6 thuộc Dīgha-nikāya:

“Khi tuổi thọ loài người lên đến tám vạn tuổi, bấy giờ có Thế Tôn hiệu là Di Lặc xuất hiện ở đời”.

Hệ Pāli còn có một bản thi tụng nhan đề: Anāgatavaṃsa (Đương lai ký), kể riêng về chuyện Đức Phật Di Lặc đương lai, được nói là do Trưởng lão Kassapa soạn; tài liệu Journal of the Pāli Text Society, 1886.

Huyền ký tương tự cũng được nói đến trong Trung A-hàm 13, kinh 66, Thuyết bản. Ở kinh này có thêm chi tiết khác:

Sau khi nghe Đức Thế Tôn huyền ký về sự xuất hiện của một Chuyển luân vương tên Loa7, bấy giờ trong hội chúng có một vị Tỷ-kheo tên là A-di-đa8 đứng dậy bạch Phật, ông muốn trong tương lai sẽ là vị Chuyển luân vương đó: “Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, con sẽ có thể được làm vua, hiệu là Loa, là Chuyển luân vương”9. Ước nguyện này bị Phật khiển trách: “Ngươi là kẻ ngu si, chỉ nên chết thêm một lần, sao lại mong một lần tái sanh nữa”10. Tỷ-kheo này bị quở trách, vì không mong cầu chấm dứt bóng tối của đêm dài sinh tử, chứng nghiệm vô thượng Niết-bàn; lại muốn tái sinh nhiều đời kiếp nữa để làm vua chúa. Sau đó Phật lại huyền ký về sự xuất hiện của vị Phật tương lai hiệu Di Lặc, trong triều đại Loa Chuyển luân vương. Bấy giờ Tôn giả Di Lặc cũng hiện diện trong hội chúng, đứng dậy chắp tay bạch Phật, phát nguyện sẽ là vị Phật được huyền ký đó: “Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ mạng đến tám vạn tuổi, con sẽ thành Phật hiệu là Di Lặc Như Lai”11. Phát nguyện này được Thế Tôn tán thán: “Lành thay! Lành thay! Di Lặc, ngươi phát tâm cực diệu là lãnh đạo đại chúng”12. Ngay khi ấy, Đức Thế Tôn dạy ngài A Nan mang ra chiếc y được dệt bằng kim tuyến do bà Kiều Đàm Di hiến cúng Phật, trao cho Di Lặc: “Này A Nan, ngươi hãy lấy tấm y được dệt bằng sợi tơ vàng mang lại đây. Nay Ta muốn cho Tỷ-kheo Di Lặc”13. Tuy ước nguyện tái sinh nhiều đời nữa, nhưng Di Lặc được Phật khen ngợi, vì ước nguyện quảng đại: “Vì muốn cứu hộ thế gian và mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong an ổn khoái lạc (cho thế gian)”14.

Tuy có một vài điểm sai khác giữa các truyền thống kinh điển, nhưng điểm được thừa nhận chung và phổ biến: Tỷ-kheo Di Lặc là vị Phật tương lai, sau một thời gian dài, kế tiếp Đức Phật Thích Ca để tuyên thuyết và truyền thừa Chánh pháp. Hiện tại, Ngài đang là Bồ-tát trú tại cung trời Đâu Suất (Tuṣita)15. Sự hiện hữu này được kinh điển gọi là nhất sinh bổ xứ Bồ-tát16, hay nhất sinh sở hệ Bồ-tát17. Phật giáo Bộ phái và Đại thừa đều chấp nhận quan điểm này. Địa vị đã chứng nghiệm của Ngài hiện tại: avaivartya-bhūmi, Hán dịch là A-duy-việt-trí địa hay A-bệ-bạt-trí địa (bất thối chuyển).

Khảo sát về danh hiệu “A-dật-đa 阿逸多”

Bài khảo luận này dành riêng một mục để khảo sát về danh hiệu A-dật-đa, vì như đã nói ở phần 1, danh hiệu này các truyền thống ghi nhận không đồng nhất.

“A-dật-đa”, tiếng Sanskrit: Ajita, Pāli: Ajita,Tây Tạng: Mi tham pa. Hán phiên âm:A-dật 阿逸, A-thị-đa 阿嗜多, A-thị-đa 阿恃多, A-chế-đa 阿制多, A-di-đà 阿夷陀, A-thì-đa 阿時多, A-di-đầu 阿夷頭, A-dật-đa阿逸多, A-thệ-đảm 阿誓擔, Kha-dật-đa 呵逸多, A-di-đa 阿夷多, Ai-di-đà 哀駘它 v.v… Dịch là: Vô thắng 無勝18Vô năng thắng 無能勝19, Vô tam độc 無三毒20, Thiên thắng天勝.

Từ Ajita trong tiếng Sanskrit và kinh tạng Pāli là danh hiệu của nhiều nhân vật khác nhau, nên khi truyền sang Trung Quốc nó không được phiên âm một cách thống nhất. Thậm chí cùng một người mang tên Ajita, nhưng văn bản Trung Quốc có đến ba bốn từ phiên âm khác nhau, tùy theo nhận thức của dịch giả. Dưới đây là sự khảo sát những nhân vật chính yếu, khác nhau, cùng mang danh hiệu Ajita xuất hiện trong văn học Phật giáo.

Trung A-hàm 13 (kinh Thuyết bản)21, Hiền ngu kinh 1222 ghi nhận A-dật-đa là danh hiệu một vị đệ tử Phật được huyền ký sẽ trở thành vị Chuyển luân vương tên Loa23. Đồng thời kinh cũng ghi rằng có Tôn giả Di Lặc, cũng là đệ tử Phật Thích Ca, được huyền ký trở thành Phật Di Lặc.

Như thế, A-dật-đa và Di Lặc từ nguyên ủy là hai nhân vật khác nhau cùng là đệ tử Phật. Sự kiện này, được xác nhận cụ thể trong văn hệ Pāli:

- Sutta Nipāta (kinh Tập) có kinh Tissametteyya (Đế-tu Di Lặc24, Tissametteyyamāṇavapucchā (câu hỏi của Đế-tu Di Lặc)25 và Ajitamāṇavapucchā (câu hỏi của A-dật-đa)26 xác định sự khác nhau như vậy giữa A-dật-đa và Di Lặc.

- Sutta Nipāta 5.1, có Vatthugāthā27còn ghi rằng họ là hai Phạm chí đệ tử của Bāvari:

mười sáu người đệ tử Bà-la-môn:

- Theragāthāpāḷi (Trưởng lão kệ) bài kệ 20. Ajitattheragāthā, do Ajita là tác giả28.

- Aṅguttaranikāya (Tăng chi bộ) có kinh Ajita29, thuật lại Tăng sĩ Ajita hỏi Đức Phật: Thế nào là lời nói đúng pháp? Thế nào là lời nói phi pháp?

- Apadāna (1. 397) kể về Thượng tọa Ajita và tiền thân của Ajita dưới thời Thế Tôn Padumuttara được huyền ký sẽ trở thành đệ tử của Thế Tôn Gotama.

Như vậy, căn cứ các thư tịch được liệt kê ở trên, cùng với nền văn học chú giải của hệ Pāli, chúng ta có thể phác họa lại hình ảnh Ajita như sau:

Ajita thuộc giai cấp Bà-la-môn, sinh ra tại Śrāvastī (Xá-vệ). Cha làm quan thời vua Kośalā, lớn lên Ajita trở thành một ẩn sĩ của Bāvari sống trong vùng Assaka và Mulaka, dọc theo bờ sông Godhāvari của Dakkhinajanapada (Cộng hòa miền Nam). Sau này, Ajita hội kiến Đức Phật, với tư cách ẩn sĩ, đã hỏi Phật về pháp và phi pháp (như được tường thuật trong kinh Ajita của Aṅguttaranikāya). Đến khi Bāvari nhờ Ajita đến thưa hỏi Đức Phật về việc bị vỡ đầu, Ajita được Phật giải đáp, rồi ông xin được xuất gia, tu tập và chứng quả A-la-hán.

Điểm cần chú ý ở đây là nhân vật Ajita này lại khác với Tissametteyya. Chính kinh Thuyết bản dẫn trên đã nói rõ Tôn giả A-di-đa (Ajita) và Di Lặc (Mettaya) là hai đệ tử của Phật Thích Ca. Đoạn kinh này cũng được Đại tỳ-bà-sa luận 17830, dẫn và giải thích, có hai nhân vật này khác nhau, một vị gọi là Bí-sô A-thị-đà 阿氏多, còn vị kia thì gọi là Bồ-tát Từ Thị 慈氏.

Như đã trình bày, mặc dù tên A-dật-đa và Di Lặc là để chỉ cho hai vị đệ tử khác nhau của Đức Phật. Nhưng trong Phật giáo Đại thừa, đã đồng nhất hai vị này thành một. Ngay từ thời La-thập, sự đồng nhất này đã xảy ra:

Chú Duy Ma Cật kinh 1 (Phật quốc phẩm), Tăng Triệu ghi lại quan điểm của La-thập: “Di Lặc là họ, A-dật-đa là tự, là con của một người Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc”31. Sự đồng nhất này sau đó đã trở thành một định lệ cho các chú sớ sau này:

- Nhất thiết kinh âm nghĩa 71, Đường, Tuệ Lâm soạn: “A-thị-đa, đây dịch là Vô thắng. Cựu dịch A-kỳ-đa, hoặc A-dật-đa đều là sai. Đó là tên đời nay của Di Lặc”32.

- A-di-đà kinh sớ của Khuy Cơ: “Bồ tát A-dật-đa, tân dịch dựa vào ‘Xưng tán Tịnh độ kinh’ dịch là Vô Năng Thắng hoặc gọi là Di Lặc, đây dịch là Từ Thị, do Ngài hay tu tập lòng từ, hay nhập định từ, nên gọi là Từ Thị, tu tập lòng từ tối thắng, nên gọi Vô Năng Thắng”33.

- Tân dịch Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh âm nghĩa 1: “A-dật-đa gọi cho đúng là A-chế-đa, đây dịch là Vô Năng Thắng”34.

Như vậy, theo truyền thống Đại thừa Phật giáo, A-dật-đa chính là tên chữ của Bồ-tát Di Lặc.

c) Tên vị A-la-hán thứ mười lăm trong mười sáu vị A-la-hán

Đại tạng kinh 49, số hiệu 2030, Đường, Huyền Tráng dịch, Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la sở thuyết pháp trụ ký, 1 quyển35 trang 12c7- 14c22, có kể một câu chuyện, tóm tắt như sau:

A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la ở nước Sư tử36, khi gần viên tịch đã nói cho đệ tử mình biết rằng, từ lâu Đức Thích Ca Thế Tôn đã dặn dò và ký thác mười sáu vị A-la-hán trở lại để hộ trì Chánh pháp, mà vị thứ mười lăm danh hiệu là A-thị-đa sẽ ở tại đỉnh Linh Phong cùng với 1.500 vị A-la-hán thân thuộc để hộ trì.

Huyền thoại mà Pháp trụ ký này nói tới, cũng thấy xuất hiện trong ĐTK Tây Tạng, thông trật đệ 64Wa, No.231, trang 1b1-112b7, Ḥphags-pa dkon-mchog sprin shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo; do Rin-chen ḥtsho và Chos-ñid tshul-khrims dịch37; Hán tương đương, ĐKT 16, số hiệu 0658, Bảo vân kinh 7, Lương, Mạn-đà-la-tiên dịch38.

Kể từ khi Huyền Tráng dịch Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la sở thuyết pháp trụ ký, tín ngưỡng về mười sáu vị A-la-hán này phát triển hưng thịnh và trở thành đề tài của nhiều tác phẩm hội họa và điêu khắc, cũng như văn học, thi ca, mà hiện nay ở Trung Quốc người ta đã tập thành trong La-hán đồ tán tập39. Tại đây, hình tượng La-hán A-dật-đa được vẽ thành một hình dáng khắc khổ, diện mạo già nua, má hóp vào, hai tay ôm đầu gối, dáng nhìn cuộc đời một cách thiểu não, nên Đức Thanh đã vịnh một bài thơ như sau (Lê Mạnh Thát dịch):

Ở Việt Nam, tín ngưỡng mười sáu vị A-la-hán này được phát triển không kém. Chùa Tây Phương (Hà Nội), hiện có tôn tượng mười sáu vị A-la-hán này rất nổi tiếng. Tại đây, tượng của vị A-la-hán A-dật-đa này được gọi là Di Lặc và điêu khắc đúng theo hình mẫu Đức Phật Di Lặc, tức diện mạo vui vẻ, đầy đặn, bụng phệ, ngực để trần, hình ảnh khác hoàn toàn với những hình vẽ La-hán này tại Trung Quốc40.

Bồ-tát Di Lặc dạy Thiện Tài phát Bồ-đề tâm

Bồ-đề tâm 菩提心, tiếng Sanskrit gọi là Bodhicitta, Tib.byang chub sems, nói đủ là anuttara-samyak-saṃbodhi-citta: vô thượng bồ-đề tâm 無上菩提心, hay 阿耨多羅三藐三菩提心 a-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề tâm, tức tâm nguyện thành tựu sự giác ngộ tối thượng:

“Bồ-đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm, giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ-đề tâm, đó là ý chí kiên cường bất khuất của một người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc của tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta.”41

Do vậy, lời Phật dạy, chúng ta cần ghi nhớ:

“Vui cười gì, thích thú gì, giữa ngọn lửa không ngừng thiêu đốt?

Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm ngọn đuốc?”42

Không có tâm nguyện Bồ-đề đó, không có ý chí giác ngộ đó, thì quả vị Phật thừa không thể kỳ vọng được, cũng không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày và sự an lạc và giải thoát trong hiện tại chỉ là một miền đất hứa xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường, mà không bao giờ có thể tìm thấy trong thế gian này.

Nhưng tâm nguyện Bồ-đề chỉ có thể được phát khởi khi gốc rễ của tín tâm đã được gieo trồng cẩn thận. Ngài Nāgārjuna trong Đại trí độ nói: “Phật pháp như đại hải, có thể vào bằng tín, có thể vượt qua bằng trí”43, và cũng trong luận này ngài đã minh giải về ý nghĩa của Bồ-đề tâm: “Vị Bồ-tát sơ phát tâm, lấy Vô thượng Bồ-đề làm đối tượng, nói rằng: Mong tôi sẽ thành Phật. Đó gọi là Bồ-đề tâm.”44

Khi đề cập về ý nghĩa độc đáo của Bồ-đề tâm và phát Bồ-đề tâm, có lẽ không giải thích nào lý thú về đề tài này hơn kinh Hoa nghiêm, thông qua sự thuyết giảng của Bồ tát Di Lặc cho Thiện Tài đồng tử:

“Bồ-đề tâm là hạt giống của hết thảy Phật Pháp. Bồ-đề tâm là ruộng phước vì nuôi lớn pháp bạch tịnh. Bồ-đề tâm là cõi đất lớn, vì nâng đỡ hết thảy thế gian. Bồ-đề tâm là tịnh thủy, vì rửa sạch tất cả cáu bợn phiền não, Bồ-đề tâm ví như gió lớn, vì nó thổi khắp thế gian không bị cản ngại; Bồ-đề tâm ví như lửa lớn, vì nó có khả năng thiêu rụi hết thảy rừng củi tà kiến; Bồ-đề tâm ví như mặt trời thanh tịnh, vì nó soi chiếu khắp cả thế gian; Bồ-đề tâm ví như trăng rằm, vì các pháp thanh tịnh đều viên mãn; Bồ-đề tâm ví như ngọn đèn sáng, vì có khả năng phóng ra các loại ánh sáng Chánh pháp; Bồ-đề tâm ví như mắt sáng, vì thấy hết thảy cùng khắp mọi chốn an nguy; Bồ-đề tâm ví như con đường lớn, vì khiến tất cả đều được đi vào kinh thành đại trí…”45

Thiết lập và toàn thiện Bồ-đề là cơ sở thành tựu bất khả tư nghị nguyện lực của Bồ-tát hàng Pháp thân, nghĩa là những ai đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, đã trải qua một thời gian dài tu tập, tích lũy được những kinh nghiệm và hành trang thiết yếu, sẽ thấy rõ được thể tính của thế gian, thông đạt sâu xa giáo nghĩa, thể nhiệm được Pháp tính siêu nghiệm.

Để hiểu rõ về tính đặc sắc của Bồ-đề tâm như được diễn tả trong kinh Hoa nghiêm (dẫn trên), chúng ta có thể đọc thêm một đoạn khác trong phẩm “Nhập pháp giới”, đoạn Bồ-tát Di Lặc khen ngợi Thiện Tài đồng tử:

“Với những kẻ trôi nổi trong bốn dòng thác lũ, con người chân thật này muốn làm con thuyền đại pháp đưa chúng sinh vượt qua biển cả. Với những kẻ chìm ngập trong vũng lầy của kiến chấp, người này muốn làm chiếc cầu đại pháp. Với những kẻ tối tăm ngu dốt, người là ngọn đèn đại trí. Với những người lạc lối trong sa mạc sanh tử, người muốn làm kẻ chỉ bày lối đi của bậc Thánh…”46

Tượng Di Lặc Nhật Bản, thuộc triều đại Asuku

Sau khi Bồ-tát Văn Thù giới thiệu Bồ-đề tâm và chỉ thị Nhất thừa đạo, Thiện Tài trải qua năm mươi mốt địa tích, tham vấn đạo lý giác ngộ và yếu chỉ thực tập trên quá trình tu chứng của Đại thừa với các vị Đại sĩ. Trong hành trình đó, chàng thanh niên ấy hội kiến Bồ-tát Di Lặc, lại một lần nữa được nghe giảng luận về Bồ-đề tâm, bấy giờ bằng chí nguyện thâm thiết của mình, Thiện Tài đồng tử đã hoàn toàn thiết lập vững chắc trong chí nguyện Đại thừa, và đã thực hiện cụ thể chí nguyện ấy. Ước nguyện và hành vi của Thiện Tài, cả hai không còn cách biệt. Vì vậy, lời khen ngợi của Bồ tát Di Lặc, chính là sự tán dương tâm nguyện Bồ-đề và sự thành tựu tâm nguyện ấy của Thiện Tài đồng tử. Sau khi nghe những lời khen thưởng từ Bồ-tát Di Lặc, bản thân Thiện Tài hoan hỷ phấn chấn, cung kính chắp tay hướng về Bồ-tát Di Lặc, rồi bất giác nhìn lại hai bàn tay của mình thấy đầy những hoa thơm đang nở rộ. Đó phải chăng chính là hương hoa của sự thành tựu tâm nguyện Bồ-đề?

Kinh nói: “Bấy giờ Phật nói với Bồ-tát Di Lặc:Này Di Lặc, nay ta đem Pháp giác ngộ Vô thượng Chính đẳng Chính giác đã tập thành trong vô lượng kiếp phó chúc cho ông. Vào thời mạt thế, sau khi Phật diệt độ, ông nên dùng khả năng thần thông để giảng truyền rộng rãi những kinh như vậy nơi cõi Diêm-phù-đề, chớ để bị đoạn tuyệt.”47

Vì sao Đức Phật Thích Ca đem Chánh pháp phó chúc cho Đức Di Lặc Đại sĩ? Vì Di Lặc (Maitreya) là hiện thể của phẩm tính maitrī (Pāli mettā): lòng từ, nội hàm hiểu theo ngôn ngữ ngày nay là sự tử tế, hay lòng nhân từ độ lượng. Dựa vào phẩm tính này, nên trong hết thảy sự hóa độ chúng sinh, Ngài luôn dìu dắt họ bằng lòng từ, khiến họ phát Bồ-đề tâm, hướng đến Bồ-tát đạo. Hễ khi nào còn có chúng sinh sung mãn tâm từ khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, thì khi ấy Chánh pháp không thể bị đoạn diệt.

Vì Di Lặc là hiện thể của phẩm tính Ajita: “Bất khả chiến bại”. Chiến đấu với cái gì mà không bị chiến bại? Chiến đấu với phiền não của tự thân, chiến đấu với rắn độc: tham-sân-si, dẹp yên được độc tố nhiễm ô (Vô tam độc), đạt đến sự thanh tịnh và lòng từ không ai hơn được (vô năng thắng) và không bao giờ bị gục ngã dưới chân ma quân. Chánh pháp là đại biểu cho chân lý, là ngọn cờ của sức mạnh đánh bại phiền não. Hễ khi nào còn hiện thân của phẩm tính Aijta, thì khi ấy Chánh pháp không bao giờ đoạn tuyệt.

Cho nên việc lễ bái, tôn kính và hành trì danh hiệu Di Lặc, chính là hành trì theo những phẩm tính siêu việt của Ngài. Truyền thuyết, có một bài chỉnh cú luôn được gán cho Đức Phật Di Lặc:

Đức Phật Di Lặc không chỉ thường trú ở Thiên cung Đâu Suất xa xôi, mà Ngài luôn hiện hữu nơi tâm thức của những hữu tình có hành vi cử chỉ của lòng từ mẫn song vận với Bồ-đề tâm. Cho nên, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, có người phát triển tâm từ, thực hành hạnh hỷ xả, kiên lập chí nguyện thành tựu bốn vô lượng tâm từ - bi - hỷ - xả, thì lúc đó và nơi đó, có Đức Phật Di Lặc biến thể xuất hiện, hướng dẫn chúng sinh trực diện chiến đấu với ma quân phiền não, để họ không bao giờ bị chiến bại trước một chút phù danh, một chút lợi dưỡng hay những ân huệ dư thừa của thế tục. Lòng từ và sự chiến thắng ấy, là những đóa hoa hương sắc, là những biểu hiện cụ thể của một mùa xuân Chánh pháp, một mùa xuânmà dòng suối từ vẫn âm thầm tuôn chảy, làm cho Phật chủng Di Lặc cũng từ đó mà luân lưu bất tuyệt trên thế gian này.

(1) T01n0026, tr. 510a01. Xem kinh văn dẫn ở phần b. (2) T9n262, tr. 46b27. (3) Buddhist Sanskrit Texts, 6 (Vaidya, tr. 205): atha khalu bhagavān Maitreyaṃ...etad avoca: yaḥ kaścid Ajita kulaputro... (4) Thảo luận chi tiết vấn đề này, xem mục 3. (5) T01n0001, tr. 041c29. (6) PTS. D.iii. 76: Asītivassasahassāyukesu, bhikkhave, manussesu metteyyo nāma bhagavā loke uppajjissati. (7) Loa 螺. Pāli: Saṅkha (vỏ sò). (8) A-di-đa 阿夷多. Pāli: Ajita. Trong bản kinh này, A-di-đa (Ajita) và Di Lặc (Mettaya) là hai nhân vật khác nhau. (9) Bản Việt, Trung A-hàm 1, TT. Tuệ Sỹ dịch (2013), tr. 585. (10) ibid., tr. 585. (11) ibid., tr. 588-589. (12) ibid., tr. 589. (13) ibid., tr. 591. (14) ibid., tr. 592. (15) Đâu suất Thiên vương 兜率天王. Htr.: Đổ-sử-đa Thiên vương 睹史多天王. VCS: “Tầng thứ tư trong sáu tầng trời Dục giới. Đây dịch là Tri túc. Nghĩa là, hưởng thụ các dục lạc nhưng biết đủ một cách sâu xa.” VKN: Saṃtuṣitadevaputra. (Dẫn bởi Duy-ma-cật sở thuyết, bản Việt, Tuệ Sỹ, Ch.4, cht. 3). (16) skt. eka-jāti-pratibaddhā bodhisattvāḥ, xem cht. 16, dưới. (17) Nhất sinh sở hệ 一生所繫, Skt. ekajātipratibandha, Tib. skye ba gcig gis thogs pa, chỉ còn bị ràng buộc một đời hay một lần sinh nữa. Từ này không có tương đương trong bản Pāli. (18) La-thập dịch, Duy Ma Cật 1, T14, no. 475, p. 537b14; Tiểu phẩm Bát-nhã 8, T08, no. 227, p. 572a8. (19)Đại Bát-nhã 576, Huyền Tráng dịch,T07n0220gp.0975b18. (20) A Di Đà kinh nghĩa ký 1, Trí Nghĩ dịch, T37, no.1755, p.306b24. (21) Xem Cht.1, dẫn thượng. (22) T04, no. 202, p. 429c8tt. (23) Saṅkha, Nhượng Khư, Xem Cht.6, dẫn thượng. (24) Snp 4.7, Tissametteyya (Snp 160). (25) Snp 5.3, Tissametteyyamāṇavapucchā (Snp 199). (26) Snp 5.2, Ajitamāṇavapucchā (Snp 197). (27) Snp 5.1, Vatthugāthā (Snp 190). (28) Thag 1.20. Ajitattheragāthā, Thag 4. (29) PTS. A. 5. 229. (30) T27n1545, tr. 893c7. (31) T38, no. 1775, p. 331b8-9: 彌勒菩薩。什曰。姓也。阿逸多字也。南天竺波羅門之子. (32) T54, no. 2128, p. 768a20: 阿氏多 (常尒反此云無勝舊言阿耆多或作阿逸多皆訛也是彌勒今生名). (33) T37, no. 1757, p. 318b13-15: 阿逸多菩薩者,依新譯《稱讚淨土經》翻為無能勝或言彌勒,此云慈氏,由彼多修慈心多入慈定故言慈氏,修慈最勝名無能勝. (34) A091, no. 1066, p. 354a6: 阿逸多 (正云阿制多此曰无能勝也). (35) T49, No. 2030: 大阿羅漢難提蜜多羅所說法住記. (36) Nay là nước Tích Lan.(37) Tạng Peking (Thánh Bảo vân Đại thừa kinh, Ārya-ratnamegha-nāma-mahāyānasūtra), Mdo-sna-tshogs (dsu)1-121a. (38) T16n0658: 寶雲經 7, 梁曼陀羅仙譯. (39) 羅漢圖讚集 Rakan zusanshū / [Tetsujō sanhen], [Japan: s.n.], Bunkyū 2 [1862] [Japan: s.n.], 文久2 [1862], 3 quyển. (40) Ngoài ra còn có một số nhân vật khác có tên Ajita, nhưng không quan trọng nên không trình bày ở đây. (41) Giải thích bởi TT.Tuệ Sỹ, Thắng Man giảng luận (2012), tr. 34. (42) Dh. l46: Ko nu hāso kimānando, niccaṃ pajjalite sati / andhakārena onaddhā, padìpaṃ na gavesatha. Văn dịch dẫn bởi Thắng Man, ibid., tr. 34. (43) Đại 25, tr. 63a1. (44) Đại 25, tr. 362c28. (45) Cf. Gaṇḍa, tr. 39617ff. Bodhicittaṃ hi kulaputra bījabhūtaṃ sarvabuddhadharmāṇām / kṣetrabhūtaṃ sarvajagacchukladharmavirohaṇatayā, dharaṇibhūtaṃ sarvalokapratiśaraṇatayā, vāribhūtaṃsarvakleśamalanirdhāvanatayā, vāyubhūtaṃ sarvalokāniketatayā, agnibhūtaṃ sarvadṛṣṭyupādānakakṣanirdahanatayā, sūryabhūtaṃ sarvasattvabhavanāvabhāsanatayā, candrabhūtaṃ śukladharmamaṇḍalaparipūraṇatayā, pradīpabhūtaṃ dharmālokakaraṇatayā, cakṣurbhūtaṃ samaviṣamasaṃdarśanatayā, mārgabhūtaṃ sarvajñatānagarapraveśanatayā. Tham chiếu, Hoa nghiêm (Phật), quyển 59, Đại 9, tr. 775. (46) Gaṇḍa, tr. 3955: eṣa hi kulaputrāḥ satpuruṣaḥ sattvānāṃ catur oghottaraṇtāyai mahādānaṃ mahādharmanāvaṃ samudānetu-kāmo, dṛṣṭipaṅkanimagnānāṃ mahādharmasetuṃ sthāpayitu- kāmo, mohāndhakāraprāptānāṃ jñānālokaṃ kartukāmaḥ saṃsāra kāntārapranaṣṭānām āryamārgaṃ saṃdarśayitukāmaḥ. Cf. Hán dịch, Hoa nghiêm (Thật), Đại 10, tr. 429a8. (47) Duy-ma-cật sở thuyết, bản Việt, Tuệ Sỹ dịch, phẩm Chúc lụy, tr. 293. (48) X64, no. 1261, p. 408c10-11; X68, no. 1315, p. 273c2-3.

Phật giáo Trung Quốc là một thuật ngữ thường dùng để chỉ đến 2 khái niệm khác nhau.

Theo nghĩa hẹp, nó được dùng để chỉ khái niệm Phật giáo tại Trung Quốc (tiếng Anh: Buddhism in China), nhằm để chỉ đến lịch sử phát triển và ảnh hưởng của Phật giáo tại Trung Quốc. Ngày nay, Phật giáo là tôn giáo được thể chế hóa lớn nhất ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ước tính có khoảng 185 đến 250 triệu tín đồ,[1] bao gồm cả 3 truyền thống Phật giáo lớn là Phật giáo Bắc truyền (có số lượng tín đồ lớn nhất, phân bố ở hầu hết lãnh thổ), Phật giáo Nam truyền (chủ yếu ở Vân Nam) và Phật giáo Mật truyền (chủ yếu ở Tây Tạng).

Theo nghĩa rộng, nó được dùng để chỉ khái niệm Phật giáo Trung Hoa (tiếng Anh: Chinese Buddhism), hay chính xác hơn là Phật giáo Hán truyền (tiếng Trung giản thể :汉传佛教; tiếng Trung phồn thể :漢傳佛教; bính âm: Hànchuán Fójiào), nhằm để chỉ đến truyền thống Phật giáo Đại thừa tiếp nhận và phát triển chủ yếu ở Trung Hoa, có ảnh hưởng lớn đến văn hóa Trung Hoa trong nhiều lĩnh vực bao gồm nghệ thuật, chính trị, văn học, triết học, y học và văn hóa vật chất, đồng thời Phật giáo Trung Hoa cũng phát triển nhiều truyền thống độc đáo khác nhau về tư tưởng và thực hành Phật giáo, bao gồm Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông và Tịnh độ tông. Phật giáo Hán truyền, thông qua các kinh văn Phật giáo Hán ngữ, theo ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa lan rộng ở khu vực Đông Bắc Á và một phần ở Đông Nam Á, là truyền thống tôn giáo chính ở Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, cũng như trong các cộng đồng người Hoa và người Việt hải ngoại. Nó cũng giữ vai trò một tôn giáo lớn ở Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc...; là những quốc gia chịu ảnh hưởng của Văn hóa Hán quyển.

Sách Lý Hoặc Luận cuối thế kỷ thứ 2 chép:

Trong một thời gian dài, đây được xem là bằng chứng sớm nhất ghi nhận thời điểm Phật giáo du nhập vào Trung Quốc cũng như kinh văn đầu tiên được dịch. Theo truyền thống, bộ kinh Tứ thập nhị chương được dịch bởi hai nhà sư Nguyệt Chi, Kasyapa Matanga (迦葉摩騰) và Dharmaratna (竺法蘭), vào năm 67 sau Công nguyên. Do sự liên kết với thời điểm Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, nên bộ kinh Tứ thập nhị chương có một địa vị rất quan trọng trong truyền thống Phật giáo ở Đông Á.[2]

Tuy nhiên, các học giả hiện đại lại đặt câu hỏi nghi ngờ về niên đại và tính xác thực của câu chuyện. Đầu tiên, có bằng chứng cho thấy Phật giáo đã du nhập vào Trung Quốc trước năm 67 thời Hán Minh đế. Bản kinh cũng không thể có niên đại đáng tin cậy vào thế kỷ thứ nhất. Các học giả cho rằng, có thể là phiên bản mà chúng ta hiện có về cơ bản khác với phiên bản của văn bản được lưu hành vào thế kỷ thứ hai. Thực chất, kinh Tứ thập nhị chương được xem như một tuyển tập nhỏ những lời Phật thuyết, được tập hợp một thời gian sau những bản dịch bản ngữ đầu tiên được chứng thực, và thậm chí có thể đã được biên soạn ở Trung Á hoặc Trung Quốc.[3]

Ngay từ khi mới du nhập, nhiều kinh điển Phật giáo Ấn Độ được dịch sang chữ Hán để thuận tiện cho việc truyền bá, các dịch giả đã sử dụng rất nhiều những khái niệm được xem là tương đồng từ các tôn giáo và trường phái triết học bản địa của Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo và Đạo giáo, cũng như tôn giáo dân gian Trung Hoa. Trong một thời gian dài, nhiều người nghĩ rằng, đạo Phật là một tông phái của đạo Lão (Lão Tử). Sự hiểu lầm này bắt nguồn từ quan điểm chung của hai tôn giáo này; cả hai đều hướng đến giải thoát. Có người cho rằng, mới đầu người Trung Quốc không hiểu đạo Phật vì ngôn ngữ chữ Hán thời đó không tiếp cận được với các khái niệm hoàn toàn trừu tượng của Phật giáo và khi dịch kinh sách Phật giáo, người ta đành dùng ngôn ngữ đạo Lão. Vì vậy về sau, khi đạo Phật đã phổ biến, công các dịch giả rất lớn và tên tuổi của họ còn lưu truyền đến ngày nay. Khoảng thế kỉ thứ 3, các nhà dịch kinh bắt đầu dịch từ Phạn ngữ ra tiếng Hán, mà những đại diện kiệt xuất là An Thế Cao (安世高), người chuyên dịch các kinh Tiểu thừa, và Chi Khiêm (支謙), người chuyên dịch các tác phẩm Đại thừa. Việc dịch một phần lớn kinh điển Phật giáo Ấn Độ sang chữ Hán và việc đưa những bản dịch này (cùng với các tác phẩm Đạo giáo và Nho giáo) vào kinh điển Phật giáo Trung Hoa có ý nghĩa sâu rộng đối với việc truyền bá Phật giáo khắp khu vực văn hóa Đông Á, bao gồm cả Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.

Năm 355, Tăng-già được thành lập. Kể từ thế kỉ thứ 4, nhiều trường phái Bát-nhã-ba-la-mật-đa ra đời với Cao tăng Chi Độn (支遁; Chi Đạo Lâm) là nhân vật quan trọng nhất. Năm 399, Pháp Hiển đi Ấn Độ và sau đó một số Cao tăng khác như Nghĩa Tịnh và Huyền Trang cũng lên đường đi Ấn Độ.

Năm 629, Huyền Trang cũng lên đường đi Ấn Độ và đã mang về một số lượng đồ sộ kinh thư từ Ấn Độ. Sau đó ông đã dành trọn phần đời còn lại để dịch những kinh thư này. Các bản dịch của ông có độ chính xác cao, trở thành bản dịch tiêu chuẩn, rất được ưa chuộng tại Trung Hoa, Nhật Bản và Triều Tiên (cũng như Việt Nam).

Trong thế kỉ thứ 5, thứ 6, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và được sự ủng hộ của triều đình. Nhờ vậy trong thời gian này, nhiều chùa chiền được xây cất, nhiều tác phẩm ra đời. Vào năm 466 và 574-577 có hai lần Phật giáo bị bức hại nhưng vẫn phát triển mạnh. Trong thời kì này, hai vị có công lớn nhất trong việc dịch kinh điển là Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什, sa. kumārajīva) và Chân Đế (真諦, sa. paramārtha). Với trình độ văn chương rất cao, hai vị này đã làm cho hầu hết các kinh văn Phật giáo Sơ kỳ và Đại thừa đều có mặt tại Trung Quốc. Đóng vai trò quan trọng trong Phật giáo Trung Quốc là Nhập Lăng-già kinh (入楞伽經, sa. laṅkāvatārasūtra), Đại bát-niết-bàn kinh (zh. 大般涅槃經, sa. mahāparinirvāṇa-sūtra) và Thành thật luận (zh. 成實論, sa. satyasiddhi). Từ đó, các tông phái như Tam luận tông (zh. 三論宗), Thành thật tông (zh. 成實宗) và Niết-bàn tông (zh. 涅槃宗) ra đời.

Giữa thế kỉ thứ 6 và thứ 10, Phật giáo Trung Quốc phát triển rực rỡ. Các tông Hoa Nghiêm (zh. 華嚴), Thiên Thai (天台), Thiền (禪), Tịnh độ (淨土), Pháp tướng (法相) ra đời, trong đó người ta nhắc nhở đến các vị Cao tăng như Huyền Trang Tam tạng (玄奘), Trí Khải (智顗), Đỗ Thuận (杜順). Với sự hiện diện của Huệ Năng (慧能) và các môn đệ kế thừa, Thiền tông phất lên như một ngọn lửa sáng rực đời nhà Đường.

Với thời gian, giáo hội Phật giáo, nhờ không bị đánh thuế, đã trở thành một tiềm lực kinh tế và có những điểm mâu thuẫn với triều đình. Nhiều nông dân cúng dường đất cho nhà chùa rồi thuê lại đất đó để trốn thuế. Năm 845, Phật giáo bị bức hại, giáo hội bị triệt hạ, tăng ni bị buộc phải hoàn tục. Từ thời điểm đó đến nay, Phật giáo Trung Quốc chưa bao giờ trở lại được thời đại huy hoàng như trước, nhưng vẫn để lại những dấu ấn quan trọng trong nền văn hoá nước này.

Trong đời nhà Tống (thế kỉ 10-13), Phật giáo hoà nhập với Khổng giáo và Lão giáo thành một nền văn hoá, trong các tông phái chỉ còn Thiền và Tịnh độ là quan trọng. Dưới thời nhà Minh (thế kỉ 14-17), có một khuynh hướng hợp nhất giữa Thiền và Tịnh độ (Thiền Tịnh hợp nhất 禪淨合一) và gây được ảnh hưởng đáng kể. Nhân vật nổi bật thời này là Vân Thê Châu Hoằng.

Giữa thế kỉ thứ 17 và 20, Phật giáo Tây Tạng bắt đầu gây ảnh hưởng tại Trung Quốc. Qua thế kỉ 20, Phật giáo Trung Quốc lại bị bức hại, nhất là trong thời kì cách mạng văn hoá (1966-1976). Tuy nhiên sau đó lại được phục hồi lại.

Hai câu "Nam mô A Di Đà Phật" hay "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật" đều rất quen thuộc không chỉ với Phật tử. Tuy nhiên, nhiều người không biết ý nghĩa của câu niệm cũng như cách áp dụng của mỗi câu.

Để giải đáp thắc mắc này, Thượng tọa Thích Nhật Từ, Phó Viện trưởng Thường trực Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM, cho biết câu niệm "Nam mô A Di Đà Phật" hay niệm "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật" được áp dụng theo từng hoàn cảnh khác nhau.

Cộng đồng Phật giáo ở một số nước như Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Campuchia không niệm "Nam mô A Di Đà Phật" mà chỉ niệm "Nam mô Bổn sư Thích Ca". Người dân những quốc gia này chỉ thờ Phật Thích Ca - vị Phật hiện diện trong lịch sử.

Người dân các nước theo Phật Giáo Đại thừa như ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên thờ nhiều vị Phật nên sẽ niệm cả "Nam mô A Di Đà", "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật" và các Phật khác. Riêng Tây Tạng là nước theo Phật giáo Đại Thừa nhưng không niệm "Nam mô A Di Đà".

Thượng tọa Thích Nhật Từ cũng lý giải, tùy từng hoàn cảnh nà Phật tử áp dụng câu niệm khác nhau. Câu niệm "Nam mô Bổn sư Thích Ca" áp dụng với phần lớn các sự kiện. Ở trong các chùa, thông thường mọi người cũng niệm "Nam mô Bổn sư Thích Ca", nhưng khi gặp nhau, chào nhau sẽ niệm "Nam mô A Di Đà Phật".

Trong khi tụng kinh, người ta thường tụng về Phật Thích Ca và niệm câu "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật", nhưng lời cuối cùng cầu chúc hòa bình thế giới, đất nước phát triển, mọi người cơm no áo ấm, hạnh phúc bình an thì lại niệm "Nam mô A Di Đà Phật". Đây là cách niệm kinh hài hòa giữa Đức Phật Thích Ca lịch sử và Phật A Di Đà được cho là đến từ hành tinh khác.

Khi nào niệm Nam mô A Di Đà Phật, khi nào niệm Nam mô Bổn sư Thích Ca?